Chào mừng các em học sinh lớp 4 cùng quý phụ huynh đến với bài viết hướng dẫn chi tiết giải bài tập trong Sách Giáo Khoa Toán Lớp 4 Trang 68, thuộc bộ sách Kết Nối Tri Thức với cuộc sống. Trang 68 nằm trong Bài 19: Giây, thế kỉ, một chủ đề quan trọng giúp các em làm quen và thành thạo các đơn vị đo thời gian cũng như cách vận dụng chúng vào giải quyết các vấn đề thực tế. Việc nắm vững kiến thức về giây và thế kỷ không chỉ giúp các em đạt điểm cao trong các bài kiểm tra mà còn hình thành tư duy logic về thời gian, một khái niệm gắn liền với cuộc sống hàng ngày. Bài viết này sẽ cung cấp lời giải rõ ràng, dễ hiểu cho từng bài tập, đồng thời mở rộng thêm những kiến thức liên quan, giúp các em không chỉ giải được bài mà còn hiểu sâu sắc bản chất của vấn đề. Hãy cùng khám phá những bài toán thú vị về thời gian và những câu chuyện lịch sử ẩn sau những con số nhé!
Kiến thức trọng tâm về Giây và Thế Kỷ trong sách giáo khoa toán lớp 4 trang 68
Nội dung
Trước khi đi vào giải các bài tập cụ thể trong sách giáo khoa toán lớp 4 trang 68, chúng ta cần ôn lại một số kiến thức nền tảng về các đơn vị đo thời gian, đặc biệt là giây và thế kỷ.
-
Các đơn vị đo thời gian và cách quy đổi:
- 1 phút = 60 giây
- 1 giờ = 60 phút
- 1 ngày = 24 giờ
- 1 tuần = 7 ngày
- 1 tháng thường có 30 hoặc 31 ngày (tháng 2 thường có 28 ngày, năm nhuận có 29 ngày)
- 1 năm = 12 tháng (khoảng 365 ngày, năm nhuận là 366 ngày)
- 1 thập kỷ = 10 năm
- 1 thế kỷ = 100 năm
-
Cách xác định một năm thuộc thế kỷ nào:
- Để xác định một năm thuộc thế kỷ nào, ta lấy số chỉ năm đó chia cho 100.
- Nếu phép chia hết, thương của phép chia chính là số chỉ thế kỷ. Ví dụ: năm 2000 chia hết cho 100, 2000 : 100 = 20. Vậy năm 2000 thuộc thế kỷ XX.
- Nếu phép chia có dư, cộng 1 vào phần nguyên của thương, ta được số chỉ thế kỷ. Ví dụ: năm 1998 chia cho 100 được 19 dư 98. Vậy năm 1998 thuộc thế kỷ (19 + 1) = XX. Năm 1698 chia cho 100 được 16 dư 98. Vậy năm 1698 thuộc thế kỷ (16 + 1) = XVII.
- Để xác định một năm thuộc thế kỷ nào, ta lấy số chỉ năm đó chia cho 100.
-
Năm nhuận:
- Năm nhuận là năm mà tháng Hai có 29 ngày.
- Thông thường, các năm chia hết cho 4 là năm nhuận (ví dụ: 2004, 2008, 2012).
- Tuy nhiên, đối với các năm tròn thế kỷ (có hai chữ số 0 ở cuối), năm đó phải chia hết cho 400 thì mới là năm nhuận (ví dụ: năm 2000 là năm nhuận, nhưng năm 1900 không phải là năm nhuận).
Nắm vững những kiến thức cơ bản này sẽ giúp các em tự tin giải quyết các bài toán liên quan đến thời gian.
Hướng dẫn giải chi tiết bài tập sách giáo khoa toán lớp 4 trang 68
Dưới đây là phần hướng dẫn giải chi tiết cho từng bài tập trong sách giáo khoa toán lớp 4 trang 68, bộ sách Kết Nối Tri Thức.
Bài 2 trang 68 SGK Toán lớp 4 Kết nối tri thức: Lịch sử Thành phố Sài Gòn
Đề bài: Lễ kỉ niệm 300 năm thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) được tổ chức vào năm 1998. Vậy thành phố Sài Gòn được thành lập vào năm nào? Năm đó thuộc thế kỉ nào?
Phân tích đề bài:
- Bài toán cho biết:
- Năm tổ chức lễ kỉ niệm 300 năm thành lập Sài Gòn là năm 1998.
- Số năm kỉ niệm là 300 năm.
- Bài toán yêu cầu:
- Tìm năm thành lập thành phố Sài Gòn.
- Xác định năm thành lập đó thuộc thế kỉ nào.
Hướng dẫn giải:
- Để tìm năm thành lập thành phố Sài Gòn, ta lấy năm tổ chức lễ kỉ niệm trừ đi số năm kỉ niệm.
- Sau khi tìm được năm thành lập, ta xác định thế kỉ của năm đó dựa vào quy tắc đã học.
Lời giải chi tiết:
Thành phố Sài Gòn được thành lập vào năm là:
1998 – 300 = 1698
Để xác định năm 1698 thuộc thế kỉ nào, ta lấy 1698 chia cho 100:
1698 : 100 = 16 (dư 98)
Vì phép chia có dư, nên năm 1698 thuộc thế kỉ: 16 + 1 = 17 (XVII).
Đáp số:
- Thành phố Sài Gòn được thành lập vào năm 1698.
- Năm đó thuộc thế kỉ XVII.
Mở rộng kiến thức: Năm 1698 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Sài Gòn – Gia Định, nay là Thành phố Hồ Chí Minh. Việc hiểu về các mốc thời gian và thế kỷ giúp chúng ta cảm nhận rõ hơn dòng chảy lịch sử của dân tộc.
Bài 3 trang 68 SGK Toán lớp 4 Kết nối tri thức: Ước lượng thời gian
Đề bài: Chọn thời gian thích hợp cho mỗi sự việc. (Nối các sự việc với các mốc thời gian cho trước: 10 giây, 1 phút, 1 giờ, 1 ngày).
Các sự việc gồm:
- Em đánh răng.
- Một trận bóng đá.
- Máy bay bay từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh.
- Vận động viên chạy 100m.
Hình ảnh bài tập 3 sách giáo khoa Toán lớp 4 trang 68 Kết nối tri thức yêu cầu nối sự việc với khoảng thời gian tương ứng
Phân tích yêu cầu:
Bài tập yêu cầu học sinh dựa trên hiểu biết thực tế để ước lượng khoảng thời gian cần thiết để hoàn thành mỗi sự việc và nối cho phù hợp.
Hướng dẫn lựa chọn và Lời giải chi tiết:
Chúng ta sẽ xem xét từng sự việc và ước lượng thời gian hợp lý:
- Em đánh răng: Thời gian đánh răng thường mất khoảng vài phút. Trong các lựa chọn, 1 phút là khoảng thời gian tương đối hợp lý (thực tế có thể là 2-3 phút, nhưng 1 phút gần nhất so với 10 giây, 1 giờ hay 1 ngày). Một số hướng dẫn khuyên đánh răng trong 2 phút. Tuy nhiên, trong các lựa chọn của bài, “1 phút” là phù hợp nhất để thể hiện một khoảng thời gian ngắn, thường xuyên. Lưu ý: Sách giải thường chọn 1 phút. Tuy nhiên, nếu có lựa chọn “vài phút” thì sẽ chính xác hơn.
- Một trận bóng đá: Một trận bóng đá thường kéo dài 90 phút (hai hiệp, mỗi hiệp 45 phút, chưa kể thời gian nghỉ giữa hiệp và bù giờ). 90 phút tương đương với 1 giờ 30 phút. So với các lựa chọn, 1 giờ là khoảng thời gian gần nhất và hợp lý nhất (mặc dù thực tế dài hơn 1 giờ).
- Máy bay bay từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh: Thời gian bay thực tế từ Hà Nội đến TP.HCM thường khoảng 2 giờ. Trong các lựa chọn, 1 giờ cũng là một ước lượng tương đối (mặc dù chưa đủ). Lưu ý: Có sự trùng lặp thời gian “1 giờ” với “một trận bóng đá”. Cần xem xét kỹ các lựa chọn còn lại.
- Vận động viên chạy 100m: Các vận động viên chạy nước rút 100m hàng đầu thế giới hoàn thành trong khoảng dưới 10 giây. Đối với học sinh hoặc các vận động viên không chuyên, có thể mất nhiều hơn một chút, nhưng chắc chắn là một khoảng thời gian rất ngắn. Do đó, 10 giây là lựa chọn phù hợp nhất.
Xem xét lại các lựa chọn để đảm bảo mỗi sự việc có một mốc thời gian riêng (nếu đề bài yêu cầu vậy):
- Vận động viên chạy 100m – 10 giây (Rất hợp lý)
- Em đánh răng – 1 phút (Hợp lý)
Còn lại “Một trận bóng đá” và “Máy bay bay từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh” với “1 giờ” và “1 ngày”.
- Một trận bóng đá kéo dài khoảng 1.5 – 2 giờ.
- Máy bay bay từ Hà Nội đến TP.HCM khoảng 2 giờ.
Nếu chỉ có “1 giờ” và “1 ngày”, thì cả hai sự việc trên đều gần với “1 giờ” hơn là “1 ngày”. Tuy nhiên, sách giải thường có đáp án cố định.
Theo logic phổ thông và các đáp án tham khảo: - Em đánh răng nối với 1 phút.
- Một trận bóng đá (thường tính thời gian thi đấu chính thức) nối với 1 giờ (mặc dù thực tế có thể là 90 phút + nghỉ + bù giờ, nhưng 1 giờ là đơn vị gần nhất).
- Máy bay bay từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh cũng thường được ước lượng bằng đơn vị giờ, khoảng 2 giờ. Nếu chỉ có lựa chọn “1 giờ” đã dùng, và “1 ngày” thì quá dài. Trong trường hợp này, có thể sách giáo khoa muốn nhấn mạnh sự khác biệt lớn về thời gian. Chúng ta cần xem lại hình ảnh gốc để xem có các lựa chọn thời gian nào khác hoặc cách nối nào tối ưu hơn.
Giả sử các lựa chọn thời gian là: 10 giây, 1 phút, 1 giờ, và một lựa chọn khác phù hợp hơn cho việc bay (ví dụ 2 giờ, hoặc một ngày nếu là chuyến đi dài ngày).
Nếu chỉ có các lựa chọn như trong bài gốc của Vietjack (và hình ảnh chỉ có 4 sự việc và có vẻ như 4 lựa chọn thời gian tương ứng, mặc dù không thấy rõ các lựa chọn thời gian trong text mô tả):
- Vận động viên chạy 100m: 10 giây
- Em đánh răng: 1 phút
- Một trận bóng đá: 1 giờ (hoặc hơn, nhưng 1 giờ là đơn vị gần nhất nếu không có 2 giờ)
- Máy bay bay từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh: Khoảng 2 giờ. Nếu không có 2 giờ, thì trong các lựa chọn còn lại (nếu có “1 ngày”), “1 ngày” là hoàn toàn không hợp lý. Có thể hình ảnh bài tập có các lựa chọn thời gian khác nhau.
Dựa theo lời giải thông thường của Vietjack cho dạng bài này:
- Em đánh răng – 1 phút
- Một trận bóng đá – 1 giờ
- Máy bay bay từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh – 1 giờ (Điều này có nghĩa là có hai sự việc cùng nối với 1 giờ, hoặc có sự nhầm lẫn trong các lựa chọn được cung cấp. Thông thường một chuyến bay nội địa như vậy sẽ dài hơn một trận bóng đá một chút).
- Vận động viên chạy 100m – 10 giây
Để chính xác hơn, chúng ta cần hình dung các lựa chọn thời gian chuẩn mà sách đưa ra. Tuy nhiên, với các sự việc này, ta có thể ước lượng như sau:
- Em đánh răng: khoảng 2-3 phút. (Nếu chọn trong các mốc tròn: 1 phút)
- Một trận bóng đá: khoảng 90 phút thi đấu chính + nghỉ giải lao. (Nếu chọn trong các mốc tròn: khoảng 2 giờ, hoặc 1 giờ nếu không có lựa chọn 2 giờ)
- Máy bay bay từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh: khoảng 2 giờ bay. (Nếu chọn trong các mốc tròn: 2 giờ, hoặc 1 giờ nếu không có lựa chọn 2 giờ và phải phân biệt với “1 ngày”)
- Vận động viên chạy 100m: dưới 15 giây. (Nếu chọn trong các mốc tròn: 10 giây)
Lời giải theo đáp án của Vietjack:
- Em đánh răng nối với 1 phút.
- Một trận bóng đá nối với 1 giờ.
- Máy bay bay từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh nối với 1 giờ.
- Vận động viên chạy 100m nối với 10 giây.
Mở rộng: Việc ước lượng thời gian cho các hoạt động hàng ngày giúp chúng ta quản lý thời gian hiệu quả hơn.
Bài 4 trang 68 SGK Toán lớp 4 Kết nối tri thức: Bài toán về chuyến bay
Đề bài: Số? Một chiếc máy bay thực hiện 400 chuyến bay mỗi năm. Biết máy bay bắt đầu hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 2001 đến hết năm 2009. Vậy máy bay đã thực hiện ..?.. chuyến bay.
Minh họa bài tập 4 sách giáo khoa Toán lớp 4 trang 68 về tính số chuyến bay của máy bay trong nhiều năm
Phân tích đề bài:
- Thông tin đã cho:
- Số chuyến bay mỗi năm: 400 chuyến.
- Thời gian hoạt động: từ ngày 1 tháng 1 năm 2001 đến hết năm 2009.
- Yêu cầu: Tính tổng số chuyến bay máy bay đã thực hiện trong khoảng thời gian đó.
Hướng dẫn giải:
- Tính số năm máy bay đã hoạt động. Khoảng thời gian “từ ngày 1 tháng 1 năm A đến hết năm B” bao gồm cả năm A và năm B. Số năm = (Năm cuối – Năm đầu) + 1.
- Tính tổng số chuyến bay bằng cách lấy số chuyến bay mỗi năm nhân với tổng số năm hoạt động.
Lời giải chi tiết:
Thời gian máy bay hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 2001 đến hết năm 2009.
Số năm máy bay đã hoạt động là:
2009 – 2001 + 1 = 9 (năm)
Tổng số chuyến bay máy bay đã thực hiện là:
400 × 9 = 3600 (chuyến)
Đáp số: 3600 chuyến bay.
Mở rộng: Dạng toán này giúp các em luyện tập cách tính khoảng thời gian giữa hai mốc năm và vận dụng phép nhân vào giải toán có lời văn.
Bài 5 trang 68 SGK Toán lớp 4 Kết nối tri thức: Tìm hiểu về năm nhuận
Đề bài: Năm nhuận là năm mà tháng Hai có 29 ngày.
a) Biết rằng các năm nhuận của thế kỉ XXI là: 2004, 2008, 2012, …, 2096. Hỏi thế kỉ XXI có bao nhiêu năm nhuận?
b) Năm cuối cùng của thế kỉ XX là một năm nhuận. Hỏi năm đó là năm nào?
Phân tích đề bài:
- Câu a: Cho dãy các năm nhuận của thế kỷ XXI (từ 2001 đến 2100). Yêu cầu tính số lượng năm nhuận trong thế kỷ này. Dãy số này là một dãy số cách đều, với khoảng cách là 4.
- Câu b: Cho biết năm cuối cùng của thế kỷ XX là một năm nhuận. Yêu cầu xác định đó là năm nào. Thế kỷ XX kéo dài từ năm 1901 đến hết năm 2000.
Hướng dẫn giải:
- Câu a: Áp dụng công thức tính số số hạng của một dãy số cách đều:
Số số hạng = (Số cuối – Số đầu) : Khoảng cách + 1 - Câu b: Xác định năm cuối cùng của thế kỷ XX. Sau đó, kiểm tra xem năm đó có phải là năm nhuận không (theo thông tin đề bài đã cho là năm nhuận).
Lời giải chi tiết:
a) Số năm nhuận của thế kỉ XXI:
Các năm nhuận của thế kỉ XXI được liệt kê là: 2004, 2008, 2012, …, 2096.
Đây là một dãy số cách đều với:
- Số đầu: 2004
- Số cuối: 2096
- Khoảng cách giữa hai năm nhuận liên tiếp: 2008 – 2004 = 4 (năm)
Số năm nhuận của thế kỉ XXI là:
(2096 – 2004) : 4 + 1 = 92 : 4 + 1 = 23 + 1 = 24 (năm)
Vậy, thế kỉ XXI có 24 năm nhuận.
b) Năm cuối cùng của thế kỉ XX là một năm nhuận:
Thế kỉ XX bao gồm các năm từ 1901 đến năm 2000.
Năm cuối cùng của thế kỉ XX là năm 2000.
Theo đề bài, năm cuối cùng của thế kỉ XX là một năm nhuận.
Kiểm tra năm 2000: Đây là năm tròn thế kỷ. Ta xét xem 2000 có chia hết cho 400 không.
2000 : 400 = 5.
Vì 2000 chia hết cho 400, nên năm 2000 là năm nhuận.
Vậy, năm cuối cùng của thế kỉ XX là một năm nhuận, đó là năm 2000.
Đáp số:
a) 24 năm nhuận
b) Năm 2000
Mở rộng: Hiểu về năm nhuận giúp chúng ta tính toán chính xác hơn số ngày trong một khoảng thời gian dài, rất hữu ích trong lịch sử, thiên văn học và cuộc sống.
Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh: Dấu ấn thời gian qua các thế kỷ (Liên hệ kiến thức từ sách giáo khoa toán lớp 4 trang 68)
Như chúng ta đã tìm hiểu ở Bài 2 trong sách giáo khoa toán lớp 4 trang 68, thành phố Sài Gòn được thành lập vào năm 1698. Năm này thuộc thế kỷ XVII (17). Đây là một cột mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu sự ra đời của một trung tâm đô thị sầm uất ở phương Nam.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, từ thế kỷ XVII, Sài Gòn đã không ngừng phát triển. Đến thế kỷ XVIII và XIX, nơi đây đã trở thành một thương cảng quan trọng, một trung tâm kinh tế, văn hóa lớn của khu vực. Bước sang thế kỷ XX, Sài Gòn tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi lịch sử trọng đại, là nơi diễn ra nhiều sự kiện đấu tranh giành độc lập dân tộc. Sau ngày đất nước thống nhất (năm 1975, thuộc thế kỷ XX), thành phố được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay, bước vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ vững vai trò là đầu tàu kinh tế, trung tâm văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ hàng đầu của cả nước. Từ một vùng đất được khai phá vào cuối thế kỷ XVII, qua hơn 300 năm với nhiều thế kỷ nối tiếp, thành phố đã vươn mình mạnh mẽ, năng động và hiện đại.
Việc học về “thế kỷ” trong môn Toán không chỉ là những con số khô khan. Nó giúp chúng ta hình dung được những khoảng thời gian dài trong lịch sử, hiểu được sự phát triển của một vùng đất, một quốc gia qua các giai đoạn khác nhau. Mỗi thế kỷ trôi qua đều để lại những dấu ấn riêng, và Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh là một minh chứng sống động cho dòng chảy không ngừng của thời gian và lịch sử.
Kết luận
Qua các bài tập trong sách giáo khoa toán lớp 4 trang 68, các em đã được ôn luyện và vận dụng các kiến thức về đơn vị đo thời gian như giây, phút, giờ, ngày, năm và đặc biệt là thế kỷ. Các bài toán không chỉ rèn luyện kỹ năng tính toán mà còn giúp các em kết nối kiến thức toán học với các sự kiện lịch sử, các hoạt động thực tế trong cuộc sống. Việc hiểu rõ cách quy đổi đơn vị thời gian, cách xác định năm thuộc thế kỷ nào, hay khái niệm năm nhuận là những nền tảng quan trọng cho việc học các kiến thức phức tạp hơn sau này.
Hy vọng rằng với những hướng dẫn giải chi tiết và phần mở rộng kiến thức trong bài viết này, các em sẽ nắm vững hơn nội dung bài học, tự tin giải quyết các dạng bài tập tương tự và thêm yêu thích môn Toán. Hãy luôn nhớ rằng, kiến thức về thời gian không chỉ nằm trên trang sách mà còn hiện hữu trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống chúng ta. Chúc các em học tập thật tốt!